U hạch thần kinh là gì? Các công bố khoa học về U hạch thần kinh

U hạch thần kinh, hay còn gọi là dây thần kinh sống (medulla spinalis), là một phần của hệ thần kinh trung ương nằm trong bộ xương sống. Nó có vai trò quan trọn...

U hạch thần kinh, hay còn gọi là dây thần kinh sống (medulla spinalis), là một phần của hệ thần kinh trung ương nằm trong bộ xương sống. Nó có vai trò quan trọng trong truyền tín hiệu thần kinh từ não đến cơ bắp và từ cơ bắp đến não. U hạch thần kinh có khả năng điều khiển các hoạt động tình dục, thúc đẩy chuyển hóa thức ăn, điều chỉnh nhiệt độ cơ thể, giữ thăng bằng và phản ứng phòng vệ. U hạch thần kinh cũng chứa các tuyến bên trong như tuyến ngang, giúp truyền tín hiệu giữa các phần của cơ thể.
U hạch thần kinh nằm trong kênh tủy sống và kéo dài từ hình tam giác sọ về đến goá cắt giữa lưng. Nó có dạng một ống hẹp và dẹp hình tròn, gồm ton thần kinh, lòng thần kinh, và màng bọc ngoài gọi là màng não tuỷ. U hạch thần kinh đóng vai trò như một "cầu nối" giữa não và các phần cơ thể, truyền tín hiệu điện từ não đến các cơ và dẫn tín hiệu cảm giác từ các cơ và da về não.

Cấu trúc của u hạch thần kinh bao gồm các "cấu tạo xanh" (gray matter) ở bên trong và các "cấu tạo trắng" (white matter) ở bên ngoài. Cấu tạo xanh chứa các hạch thần kinh màu xám và có chức năng xử lý thông tin, trong khi cấu tạo trắng chứa các cuống thần kinh trắng, chịu trách nhiệm truyền tín hiệu giữa các phần khác nhau của cơ thể và não.

U hạch thần kinh được chia thành các phân đoạn tương ứng với các khu vực trên cơ thể. Mỗi phân đoạn có một cặp dây thần kinh gọi là cặp thần kinh ngoại biên, là con đường truyền tín hiệu giữa u hạch và các phần cơ thể.

Xuyên qua các vùng hạch trong u hạch thần kinh, có các đốt sống tiền giao (intervertebral foramina) cho phép các cuống thần kinh xuất phát và nhập vào tổ chức gốc. Tổ chức gốc này là cách thức cung cấp sự chuyển động, cảm giác và vai trò tự động của các phần cơ thể.
Cấu trúc bên trong u hạch thần kinh bao gồm các cột xanh (gray columns) và sợi thần kinh (nerve fibers). Các cột xanh, cũng được gọi là cột nàng hệ võng (dorsal horn) và cột nạc tiếp đất (ventral horn), chứa các tế bào thần kinh màu xám, bao gồm các tế bào thần kinh cảm giác và tế bào thần kinh chức năng. Các tế bào thần kinh cảm giác nhận và truyền tín hiệu từ các cảm biến, như đau, nhiệt độ hay áp lực, đến não. Trong khi đó, các tế bào thần kinh chức năng điều khiển các cơ và các hoạt động tự động của cơ thể, bao gồm các tế bào thần kinh chuchio tự động (autonomic motor neurons).

Các sợi thần kinh thuộc cấu tạo trắng của u hạch thần kinh chứa các tín hiệu điện được truyền từ bộ não xuống các phần cơ thể hay từ các phần cơ thể lên não. Hai loại sợi quan trọng trong u hạch thần kinh gồm sợi thần kinh cổ và sợi thần kinh hậu (afferent nerve fibers và efferent nerve fibers).

- Các sợi thần kinh cổ truyền tải tín hiệu từ các cảm biến (như da, cơ và cơ jic) tới bộ não để cung cấp thông tin về cảm giác, áp suất, nhiệt độ và hiện trạng cơ thể.
- Các sợi thần kinh hậu chuyển tín hiệu từ não xuống các phần cơ thể để điều khiển hoạt động của các cơ, cảm giác và phản xạ tự động.

U hạch thần kinh cũng chứa các tuyến bên trong, là những nhánh thần kinh nổi lên để kết hợp các tín hiệu giữa các phần cơ thể và u hạch thần kinh. Các tuyến bên trong này có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh cơ bắp, cân bằng và phản xạ.

U hạch thần kinh được bảo vệ và bao bọc bởi một tầng màng bọc gọi là màng não tuỷ (meninges). Màng não tuỷ gồm có màng ngoại (dura mater), màng trung ương (arachnoid mater) và màng trong (pia mater). Chúng bảo vệ u hạch thần kinh khỏi tổn thương và cung cấp sự hỗ trợ cơ động cho u hạch thần kinh.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "u hạch thần kinh":

Thân Lewy trong bệnh Alzheimer: Một đánh giá bệnh lý thần kinh trên 145 trường hợp sử dụng miễn dịch nhuộm α-synuclein Dịch bởi AI
Brain Pathology - Tập 10 Số 3 - Trang 378-384 - 2000

Kháng thể chống lại α‐synuclein (AS) hiện nay cung cấp một phương pháp nhạy cảm và đặc hiệu để phát hiện thân Lewy (LB) và việc sử dụng chúng sẽ cho phép xác định chính xác hơn sự phổ biến của LB trong bệnh Alzheimer (AD). Các nghiên cứu sử dụng miễn dịch nhuộm AS (IHC) đã phát hiện LB trong hạch hạnh nhân của hơn 60% trường hợp AD gia đình khởi phát sớm và trong 50% bệnh nhân hội chứng Down mắc AD. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào báo cáo việc sử dụng IHC AS để phát hiện LB trong một nhóm lớn các trường hợp AD bệnh lý nguyên phát. Nghiên cứu này đã kiểm tra 145 trường hợp AD bệnh lý nguyên phát được chẩn đoán theo tiêu chuẩn CERAD từ 1995–1999 để tìm sự hiện diện của LB bằng cách sử dụng IHC AS. IHC AS đã phát hiện LB ở 88/145 (60.7%) trường hợp AD bệnh lý nguyên phát. Tương tự, LB được tìm thấy ở 56.8% trong số 95 trường hợp đáp ứng các tiêu chuẩn NIA‐RI nghiêm ngặt hơn để chẩn đoán AD (giai đoạn Braak 5–6). Trong tất cả các trường hợp có LB, hạch hạnh nhân đều bị ảnh hưởng và LB luôn là khu vực đông nhất, tuy nhiên, trong một số trường hợp, LB trong chất đen hiếm gặp hoặc không có. Tóm lại, nghiên cứu này cho thấy rằng IHC AS phát hiện LB ở phần lớn các trường hợp AD bệnh lý nguyên phát và rằng hạch hạnh nhân là vùng bị ảnh hưởng phổ biến nhất.

#thân Lewy #bệnh Alzheimer #bệnh lý thần kinh #miễn dịch nhuộm #α-synuclein #hạch hạnh nhân
Khi Niềm Vui Của Bạn Là Nỗi Đau Của Tôi Và Nỗi Đau Của Bạn Là Niềm Vui Của Tôi: Các Tương Quan Thần Kinh Của Sự Ghen Ghét Và Sự Vui Mừng Trước Nỗi Khổ Dịch bởi AI
American Association for the Advancement of Science (AAAS) - Tập 323 Số 5916 - Trang 937-939 - 2009

Chúng ta thường đánh giá bản thân và người khác qua những so sánh xã hội. Chúng ta cảm thấy ghen tỵ khi người mục tiêu có những đặc điểm vượt trội và có liên quan đến bản thân. Sự vui mừng trước nỗi khổ (Schadenfreude) xảy ra khi những người bị ghen tỵ gặp phải thất bại. Để làm sáng tỏ cơ chế thần kinh-cognitive của sự ghen tỵ và Schadenfreude, chúng tôi đã tiến hành hai nghiên cứu chụp cộng hưởng từ chức năng (fMRI). Trong nghiên cứu thứ nhất, những người tham gia đọc thông tin liên quan đến các mục tiêu được đặc trưng bởi mức độ sở hữu và tính tự liên quan của các lĩnh vực so sánh. Khi mức sở hữu của người mục tiêu vượt trội và có liên quan đến bản thân, cảm giác ghen tỵ mạnh mẽ hơn và sự kích hoạt vỏ não trước (ACC) mạnh mẽ hơn đã được kích thích. Trong nghiên cứu thứ hai, sự vui mừng trước nỗi khổ và sự kích hoạt mạnh mẽ của hạch nền diễn ra khi những bất hạnh xảy ra với những người bị ghen tỵ. Sự kích hoạt ACC trong nghiên cứu thứ nhất dự đoán sự kích hoạt của hạch nền ventral trong nghiên cứu thứ hai. Các phát hiện của chúng tôi ghi nhận các cơ chế của cảm xúc đau đớn, sự ghen tỵ, và phản ứng được tưởng thưởng, Schadenfreude.

#Sự ghen tỵ #Schadenfreude #chụp cộng hưởng từ chức năng #vỏ não trước #hạch nền
Đặc điểm của phản ứng miễn dịch của cơ thể trong các hạch thần kinh ở người sau khi nhiễm herpes zoster Dịch bởi AI
Journal of Virology - Tập 84 Số 17 - Trang 8861-8870 - 2010
TÓM TẮT

Virus varicella-zoster (VZV) gây ra bệnh thủy đậu (chicken pox) và thiết lập trạng thái tiềm tàng trong các hạch thần kinh, từ đó virus tái hoạt hóa để gây ra bệnh zona (herpes zoster), thường kèm theo đau thần kinh sau herpes (PHN), gây ra cơn đau thần kinh nghiêm trọng có thể kéo dài nhiều năm sau khi phát ban. Bất chấp ảnh hưởng lớn của herpes zoster và PHN đến chất lượng cuộc sống, bản chất và động học của các tương tác giữa virus và tế bào miễn dịch dẫn đến tổn thương hạch chưa được xác định. Chúng tôi đã lấy được mẫu vật hiếm gồm bảy hạch cảm giác từ ba người hiến tặng, những người đã trải qua herpes zoster từ 1 đến 4,5 tháng trước khi qua đời nhưng không chết do herpes zoster. Chúng tôi đã thực hiện nhuộm miễn dịch để điều tra vị trí nhiễm VZV và để phân loại tế bào miễn dịch trong các hạch này. Kháng nguyên VZV chủ yếu được định vị trong các tế bào thần kinh, và trong ít nhất một trường hợp, kháng nguyên này tồn tại lâu sau khi phát ban được giải quyết. Sự xâm nhập miễn dịch lớn bao gồm các tế bào T CD8+ không gây ly giải, với số lượng ít hơn các tế bào T CD4+, tế bào B, tế bào NK và đại thực bào, và không có tế bào trình diện kháng nguyên. Các tế bào thần kinh dương tính với kháng nguyên VZV không biểu hiện phức hợp tương hợp mô chính (MHC) lớp I phát hiện được, cũng như các tế bào T CD8+ không bao quanh các tế bào thần kinh bị nhiễm, cho thấy rằng các cơ chế kiểm soát miễn dịch có thể không phụ thuộc vào sự tiếp xúc trực tiếp. Đây là báo cáo đầu tiên xác định bản chất của phản ứng miễn dịch trong các hạch thần kinh sau herpes zoster và cung cấp bằng chứng cho sự tồn tại của kháng nguyên virus không liên quan đến trạng thái tiềm tàng và tình trạng viêm kéo dài sau khi phát ban được giải quyết.

Thách thức miễn dịch trước sinh làm suy yếu quá trình phát triển bình thường của thần kinh trong sự phát triển vỏ não chuột Dịch bởi AI
Journal of Neuroscience Research - Tập 89 Số 10 - Trang 1575-1585 - 2011
Tóm tắt

Nhiễm trùng mẹ trong thai kỳ là một yếu tố nguy cơ môi trường đối với sự phát triển của các rối loạn não nghiêm trọng ở con cái, bao gồm tâm thần phân liệt và tự kỷ. Tuy nhiên, còn rất ít thông tin về các cơ chế phát triển thần kinh nền tảng cho mối liên hệ giữa việc tiếp xúc với nhiễm trùng trước khi sinh và sự xuất hiện của các rối loạn chức năng nhận thức và hành vi trong cuộc sống sau này. Bằng cách tiêm axit polyriboinosinic-polyribocytidylic (Poly I:C) giống virus vào chuột, chúng tôi đã điều tra ảnh hưởng của thách thức miễn dịch mẹ trong thai kỳ đến sự phát triển của vỏ não ở con cái. Nghiên cứu trước đó của chúng tôi cho thấy sự kích thích hệ thống miễn dịch mẹ đã làm giảm khả năng biểu hiện của các yếu tố phiên mã và sự hình thành synapse của các nơron vỏ não ở các lớp trên nhưng không phải ở các lớp sâu. Mục tiêu của nghiên cứu hiện tại là kiểm tra thêm liệu thách thức miễn dịch mẹ có ảnh hưởng đến các đặc điểm tế bào-sinh học của các tiền thân vỏ não tạo ra các loại nơron vỏ não khác nhau hay không. Chúng tôi đã phát hiện ra những bất thường sau trong vỏ não của những con chuột được tiêm Poly I:C trước sinh trong các giai đoạn muộn của quá trình sinh nơron vỏ não. Đầu tiên, hoạt động sinh sản và biểu hiện của Pax6, một yếu tố điều hòa chính trong biểu hiện gen của các yếu tố phiên mã, đã giảm đáng kể ở các tiền thân vỏ não. Thứ hai, sự phân bổ lớp và biểu hiện gen đã bị thay đổi đáng kể ở các nơron con được sinh ra vào cùng một ngày sinh. Những kết quả này cho thấy rằng những bất thường cụ thể ở các tiền thân vỏ não là dấu hiệu trước những thiếu hụt về kiểu hình nơron. Những thay đổi này có thể là nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện của các rối loạn tâm thần và hành vi sau khi tiếp xúc với nhiễm trùng trong tử cung.

#bệnh thần kinh #miễn dịch mẹ #phát triển vỏ não #tâm thần phân liệt #tự kỷ #nơron #thách thức miễn dịch trước sinh
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ TIÊM PHONG BẾ THẦN KINH V BẰNG CỒN TUYỆT ĐỐI LIỀU THẤP TRÊN BỆNH NHÂN ĐAU DÂY THẦN KINH V NGUYÊN PHÁT TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 518 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị của tiêm phong bế thần kinh V bằng cồn tuyệt đối liều thấp trên bệnh nhân đau dây thần kinh V nguyên phát và một số yếu tố liên quan. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả hồi cứu và tiến cứu trên 38 người bệnh được chẩn đoán xác định là đau dây thần kinh V nguyên phát được can thiệp tiêm phong bế thần kinh V bằng cồn tuyệt đối liều thấp tại bệnh viện Đại học Y Hà Nội từ tháng 1 năm 2019 đến tháng 7 năm 2022. Kết quả: 38 bệnh nhân được tiêm cồn tuyệt đối trong điều trị đau dây thần kinh V từ tháng 1 năm 2019 đến tháng 7 năm 2022. Trong đó, có 30 trường hợp tiêm cồn liều 0,3 ml và 8 trường hợp với liều lớn hơn 0,3 ml. Thang điểm đánh giá đau trực quan (VAS) từ mức độ trung bình (18 trường hợp) và mức độ nặng (12 trường hợp) trước can thiệp với 24 bệnh nhân sau can thiệp cải thiện mức độ đau nhẹ hoặc không đau. Có 30 (100%) người bệnh không trải qua cơn đau tái phát trong vòng tối thiểu một năm. Sử dụng thang điểm đánh giá cường độ đau của Viện Thần kinh học Barrow (BNI-PS), sau 2 tuần chỉ có 2 trường hợp đau tái phát ghi nhận mức BNI-PS IV (6,7%), sau 12 tháng có 2 trường hợp đau tái phát mức độ điểm BNI-PS IV (6,7%), sau trên 12 tháng có 5 trường hợp đau tái phát mức độ điểm BNI-PS IV (17,2%) và 1 trường hợp với BNI-PS V (3,4%). Không có biến chứng nghiêm trọng nào được báo cáo. Mất cảm giác theo chi phối của nhánh thần kinh V và tê bì mặt được báo cáo trong 87% trường hợp với liều 0,3 ml và 87,5% trường hợp với liều lớn hơn 0,3 ml. Các biến chứng khác bao gồm: viêm giác mạc ở 12,5% trường hợp với liều 0,3 ml và 13,3% trường hợp với liều lớn hơn 0,3ml, yếu cơ cắn ở 23,3% trường hợp với liều 0,3ml và 25% trường hợp với liều lớn hơn 0,3ml.
#Đau dây thần kinh V #tiêm cồn tuyệt đối #hạch Gasser #VAS #BNI-PS
Văn hóa ba chiều của hạch giun và ốc cho nghiên cứu về phục hồi thần kinh Dịch bởi AI
Invertebrate Neuroscience - Tập 5 - Trang 173-182 - 2005
Mạng lưới collagen ba chiều (3D) cung cấp một ma trận ổn định trong đó các hạch tái sinh được tách ra từ giun và ốc có thể được duy trì để nghiên cứu các cơ chế phân tử và tế bào cơ sở cho quá trình tái sinh. Các hạch đoạn từ giun, hoặc các hạch thượng thực quản, hạ thực quản hoặc miệng từ ốc được duy trì trong tối đa 3 tuần trong các ma trận collagen loại I của động vật có vú. Ma trận collagen hỗ trợ sự phát triển tái sinh của các trục sợi trục cũng như sự di cư của các tế bào vi tuần hoàn, những yếu tố quan trọng trong quá trình sửa chữa. Các protein, yếu tố hòa tan hoặc mô mục tiêu có thể được thêm vào ma trận collagen cơ bản để điều chỉnh môi trường của mô đang tái sinh. Chúng tôi mô tả các kỹ thuật nhuộm miễn dịch cho các sợi trục tái sinh và các tế bào vi tuần hoàn trong ma trận gel kết hợp với nhuộm nhân tế bào và việc sử dụng đánh dấu nội bào để phân biệt các sợi trục của các tế bào thần kinh đã xác định trong quá trình phát triển tái sinh.
#ma trận collagen ba chiều #hạch giun #hạch ốc #tái sinh #sửa chữa thần kinh #tế bào vi tuần hoàn #đánh dấu nội bào
Tín hiệu Notch xác định sự lựa chọn số phận thần kinh - glial của hạch rễ lưng trong quá trình di cư sớm của tế bào màng thần kinh Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 20 - Trang 1-13 - 2019
Hạch rễ lưng (DRG) là một thành phần quan trọng của hệ thần kinh ngoại biên, có chức năng truyền đạt thông tin cảm giác từ ngoại vi của cơ thể đến các trung tâm cảm nhận trong não. DRG chủ yếu được cấu tạo từ hai loại tế bào, tế bào thần kinh cảm giác và tế bào glia, cả hai đều có nguồn gốc từ màng thần kinh. Tín hiệu Notch được biết là đóng vai trò thiết yếu trong việc xác định số phận tế bào thần kinh hoặc glial của các tế bào tiên nguồn màng thần kinh đối biện di cư từ rìa sau của ống thần kinh đến vị trí của DRG. Tuy nhiên, sự tham gia của các chất liên kết Notch trong quá trình này và thời điểm mà số phận thần kinh và glial được xác định vẫn còn chưa rõ ràng. Chúng tôi đã sử dụng công nghệ knock-out tế bào cụ thể đối với E3 ubiquitin ligase mindbomb1 (Mib1) để loại bỏ chức năng của tất cả các chất liên kết Notch trong các tế bào màng thần kinh. Những con chuột Wnt1-Cre; Mib1fl/fl thể hiện những khiếm khuyết nghiêm trọng ở DRG, bao gồm giảm số lượng tế bào glial và cái chết tế bào thần kinh trong giai đoạn phát triển sau đó. Bằng cách so sánh sự hình thành tế bào thần kinh cảm giác và glia với sự biểu hiện và kích hoạt của tín hiệu Notch ở những con chuột này, chúng tôi đã xác định được một giai đoạn quan trọng trong quá trình phát triển phôi thai, trong đó các tế bào màng thần kinh di cư sớm trở nên thiên về các kiểu hình thần kinh và glial. Chúng tôi chứng minh rằng tín hiệu Notch hoạt động giữa các tế bào tiên nguồn màng thần kinh ngay khi các tế bào màng thần kinh thân mình tách ra khỏi ống thần kinh và trong quá trình di cư sớm của chúng đến vị trí của DRG. Dữ liệu này đặt ra câu hỏi về thời điểm xác định số phận thần kinh - glial trong DRG và gợi ý rằng nó có thể xảy ra sớm hơn nhiều so với những gì đã được xem xét ban đầu.
#Notch signalling #dorsal root ganglia #neuroglial fate #neural crest cells #embryonic development
Sự myelin hóa viêm nhiễm gây ra sự thay đổi ở tế bào glia và mất đi tế bào hạch thần kinh trong võng mạc của mô hình bệnh viêm não tự miễn dịch Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 10 - Trang 1-12 - 2013
Bệnh mãn tính đa xơ cứng (MS) thường đi kèm với tình trạng viêm dây thần kinh thị giác. Một số bệnh nhân trải qua mất thị lực vĩnh viễn. Chúng tôi đã xem xét liệu mức độ thâm nhập và mất myelin của dây thần kinh thị giác có ảnh hưởng đến độ nặng của các triệu chứng lâm sàng trong mô hình viêm não tự miễn dịch (EAE) hay không. Sự mất mát của các tế bào hạch võng mạc (RGC) và những thay đổi trong hoạt động của tế bào glia cũng được nghiên cứu. Chuột C57BL/6 được miễn dịch với peptide MOG35-55 trong dung dịch phụ gia Freund hoàn chỉnh (CFA) và nhóm đối chứng nhận PBS trong CFA. Sau đó, vào ngày thứ 23 sau khi miễn dịch, mắt được chuẩn bị để làm phẳng và nhuộm bằng Nissl để đánh giá mật độ thần kinh. Các triệu chứng lâm sàng của EAE cũng như sự thâm nhập tế bào và mất myelin trong dây thần kinh thị giác được kiểm tra. Mẫu cắt võng mạc được nhuộm bằng thuốc nhuộm hematoxylin và eosin cũng như thuốc nhuộm bạc. Kỹ thuật hóa mô miễn dịch (immunohistochemistry) được sử dụng để đánh dấu các tế bào RGC (Brn-3a), tế bào apoptotic (caspase 3), macroglia (protein sợi glial acid (GFAP)), microglia (Iba1), đại thực bào (F 4/80) và sự tiết interleukin-6 (IL-6). Các triệu chứng EAE bắt đầu vào ngày thứ 8 và đạt đỉnh vào ngày thứ 15. Sự thâm nhập tế bào (P = 0.0047) và mất myelin (P = 0.0018) của dây thần kinh EAE tương quan với điểm số lâm sàng (r > 0.8). EAE dẫn đến mất đáng kể các tế bào RGC (P < 0.0001). Số lượng tế bào caspase 3+ tăng lên thấy rõ trong các động vật này (P = 0.0222). Chúng cho thấy sự biểu hiện GFAP tăng (P < 0.0002) và số lượng tế bào microglia cao hơn (P < 0.0001). Ngoài ra, cũng quan sát thấy nhiều đại thực bào hơn và sự tiết IL-6 ở chuột EAE. Sự miễn dịch MOG dẫn đến chứng viêm thần kinh thị giác và mất RGC. Độ nặng của EAE có liên quan đến mức độ nặng của tình trạng viêm dây thần kinh thị giác và mất myelin. EAE không chỉ ảnh hưởng đến sự kích hoạt của các tín hiệu apoptosis mà còn gây ra phản ứng glia trong võng mạc.
#bệnh đa xơ cứng #viêm dây thần kinh thị giác #tế bào hạch võng mạc #EAE #phản ứng của tế bào glia #thâm nhập tế bào #mất myelin
Nghiên cứu thực nghiệm về sự hình thành đau động mạch chủ và sự dẫn truyền đến hệ thần kinh trung ương Dịch bởi AI
Research in Experimental Medicine - Tập 52 - Trang 180-196 - 1926
1. Các cảm giác đau và các phản ứng cho thấy đau từ cung động mạch chủ và động mạch chủ lên có thể được tạo ra bằng cách kích thích làm căng quá mức thành động mạch chủ (đưa vào các lò xo phân nhánh, làm phồng một túi được tách ra từ cung động mạch chủ bằng cách tiêm dung dịch NaCl sinh lý). 2. Việc tiêm các chất có thể gây co thắt cơ trơn ở các cơ quan rỗng (BaCl2) vào một túi được tách ra từ cung động mạch chủ không thể tạo ra phản ứng đau một cách chắc chắn, nếu như lớp ngoài (adventitia) không bị ảnh hưởng bởi dịch tiêm. 3. Việc bôi lên bề mặt bên ngoài của động mạch chủ lên hoặc cung động mạch chủ bằng các chất gây kích thích cũng có tác dụng gây ra đau rõ rệt. 4. Đối với con đường dẫn truyền cơn đau từ động mạch chủ được tạo ra bởi các phương tiện này (sau các thí nghiệm trên mèo, thỉnh thoảng cũng trên chó), có thể xem xét chủ yếu việc dẫn truyền qua các hạch ngôi sao, đặc biệt là hạch bên trái. Vì vậy, sự dẫn truyền cảm giác đau từ động mạch chủ lên và phần cung của động mạch chủ chủ yếu diễn ra qua cùng một con đường tới tủy sống như từ chính trái tim. Mặc dù không thể hoàn toàn loại trừ sự tham gia của các sợi thần kinh dây đáp ứng trung tâm nhưng chúng chỉ đóng vai trò nhỏ hoặc trong một số trường hợp đơn lẻ. Một điểm tham khảo cho sự tham gia của thần kinh giao cảm cổ và hạch cổ trên trong việc dẫn truyền đau từ động mạch chủ không thể được thu thập.
#đau động mạch chủ #hệ thần kinh trung ương #dẫn truyền đau #hạch ngôi sao
Tiêu chảy tiết dịch như triệu chứng chính của một khối u thần kinh hạch Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 146 - Trang 838-842 - 1998
Chúng tôi báo cáo về một bệnh nhi 4 tuổi có tiền sử 18 tháng diễn ra các triệu chứng mệt mỏi, khát nước quá mức, đau xương và tăng trưởng chiều cao trì trệ. Một đợt nhiễm khuẩn sốt đã dẫn đến sự suy sụp cấp tính với hình ảnh lâm sàng của hội chứng WDHA (tiêu chảy nước, hạ kali máu, A- hoặc hạ clohydri). Nguyên nhân được chẩn đoán là một khối u thần kinh hạch tiết VIP (peptit ruột vasoactif) nằm ở bên trái của tuyến thượng thận. Triệu chứng đã trở lại bình thường trong vòng 1 ngày sau khi phẫu thuật cắt bỏ khối u. Thảo luận: Các khối u tiết VIP chủ yếu ảnh hưởng đến hệ thần kinh giao cảm ở trẻ em. Qua một cơ chế trung gian cAMP, VIP được tiết ra quá mức từ các khối u này dẫn đến hội chứng WDHA, một hội chứng đặc trưng bởi sự mất mát lớn về chất lỏng và điện giải qua đường ruột với hình ảnh tiêu chảy tiết dịch kèm theo toan chuyển hóa hạ kali máu. Tăng tiêu hủy xương, đỏ bừng mặt và tăng đường huyết có thể được ghi nhận. Phương pháp điều trị chính là phẫu thuật cắt bỏ khối u.
#tiêu chảy tiết dịch #hội chứng WDHA #khối u thần kinh hạch #tiết VIP #trẻ em
Tổng số: 36   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4